CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐẾN VỚI TRANG TTĐT TRUNG TÂM VĂN HÓA - THỂ THAO VÀ TRUYỀN THANH - TRUYỀN HÌNH HUYỆN ĐẠI LỘC

Hôm nay:22/11/2024

Khói bên sông

Đàn cò trắng bay la đà phía trước xe tôi đang chạy trên con đường bê tông xuyên giữa cánh đồng. Ngẫu nhiên thôi mà nhìn đàn cò bay như những kẻ dẫn đường cho chúng tôi về làng. Đưa ê kíp làm phim thực hiện một số cảnh quay, ý đồ của kịch bản một phim văn nghệ là phải tìm  cái cảnh bến bờ sông nước nào cho thật xưa, thật nhuốm màu “cổ độ”, vậy nên gặp đàn cò trắng trên cánh đồng lúa xanh ngút ngát thế kia thì quả là một cảnh đẹp. Nhưng khi quay nhìn chung quanh, trụ điện và dây điện các loại giăng ngang trời đất, hiện đại cỡ ấy thì bến bờ “cổ độ” thế nào cho được mà quay.

Về Đại Phong quê mình đi, mỗi cái làng Phường Đông bên bờ dòng Vu Gia đã có lắm cái bến xưa rồi: bến đò Lê, bến đò Thắng…, còn có cả cái bến Cựu Thị hàng mấy trăm năm đã chìm dưới sông sâu nữa. Tôi nói với những người bạn trong ê kíp làm phim cùng đi. Lâm - tác giả kịch bản và mọi người ngồi trên xe đều “ô kê” hưởng ứng. Vậy là chuyến xe rời cánh đồng vùng ngoại ô Đà Nẵng theo đường 14 hướng về Đại Lộc.

Bến sông nơi đầu nguồn Vu Gia.                                Ảnh tư liệu
Bến sông nơi đầu nguồn Vu Gia. Ảnh tư liệu

Thực ra để dàn dựng một vài cảnh quay bến đò xưa, kiểu: Ngày xưa áo nhuộm hoàng hôn/ Bóng ai xách giỏ qua cồn hái dâu, thì cũng có thể loanh quanh mấy quãng sông ở vùng ngoại ô thành phố. Sông nào mà chẳng trăm năm, cộng với một số hình ảnh tư liệu, nào chiếc thuyền nan, đàn cò bay, bầy trẻ thơ thả diều trên bến bãi…, ngần ấy thôi chả đến nỗi khó khăn gì. Nhưng tôi thầm nuôi riêng một ý đồ: ngoài tìm cảnh quay cho phim, tôi còn muốn nhân cơ hội này ghi lại một số hình ảnh của làng quê mình.

Từ khoảng hơn mười năm trở lại đây, hầu như năm nào bão lụt đến mùa trút xuống là làng tôi theo từng ấy năm gầy guộc lại. Cả một vùng đất màu mỡ tươi tốt ven sông có đến hàng trăm héc ta đã lở xuống sông sâu. Cồn Mã Vôi, cồn Cây Duối, cồn Sậy, đến cả vùng đất nà Cựu Thị gần như đã xóa tên trong bản đồ đất nông nghiệp. Chưa dừng lại ở đó, vùng sạt lở còn lấn sâu vào vườn tược, làng mạc, tất cả nhà dân buộc phải di dời đến nơi ở mới. Ngay cái đình làng mới xây dựng lại cũng phải chọn khu vực giữa trung tâm đất làng, bỏ cái nền đình cũ trăm năm ở giữa vùng đất nà. Vẫn biết Nhà nước đã chi viện tiền tỷ xây dựng bờ kè dọc bờ sông để chống chọi lại nguy cơ sạt lở lan rộng, nhưng thiên tai bão lụt làm sao lượng định hết những rủi ro. Cũng chính vì thế, nhân cơ hội làm phim này, tôi quyết thực hiện một số cảnh quay ở làng mình để may ra còn lưu lại dăm ba hình ảnh. Đấy cũng là cách đắp bồi thêm ký ức của làng, hoặc có thể như là một “địa chí” được thể hiện bằng hình ảnh, rằng xứ sở của tôi đã có một thời như thế.

Xe lại chạy xuyên qua những cánh đồng Đại Cường, Đại Minh. Ở một vùng quê giống như cái đảo nhỏ gieo neo cách trở, đã thế lũ lụt mưa bão kiểu như theo mùa thường trực trước cửa nhà, để tồn tại và phát triển là cả một sức sống bền bỉ, nó có khả năng đối trọng lại với mọi thiên tai hiểm họa, quen rồi thành một bản năng tự vượt lên. Vùng B Đại Lộc được như bây giờ ngày xưa nằm mơ cũng không thấy được. Tuy vậy cái mất do lụt bão gây nên, cái cảnh biển dâu diễn ra cũng khá cụ thể. Chỉ một trận lụt lớn thôi, hàng trăm mẫu đất làng lở trôi mất hút không còn để lại một dấu vết, mà để bồi đắp nên cũng chừng ấy đất thì cả trăm năm chưa chắc đã thành.

Mới đấy mà xe đã tới ngã tư Gia Cốc. Như kẻ tròn vai một hướng dẫn viên du lịch, hễ đi qua làng xã địa danh nào tôi đều say sưa nói với các bạn đồng hành về những huyền thoại, giai thoại của vùng đất đó. Ví như cái làng Gia Cốc này đây, địa danh này đã có ghi trong sách Ô châu cận lục của Dương Văn An (1514-1591), được biên soạn xong vào khoảng năm 1553, cũng tức là cái làng này tính đến nay đã tròm trèm 500 năm tuổi. Rất có thể thuở cha ông mở đất tiến về phương Nam, thời xa xưa ấy nơi đây còn là vùng rừng giáp ranh chân dãy Trường Sơn, tổ tiên ta chỉ mới khai phá lập nên ngôi làng đầu tiên này. Vậy mà cái làng cổ Gia Cốc 500 năm tuổi, trải qua bao dâu bể thời gian, bao cuộc chiến tranh và thiên tai địch họa đã tàn phá không còn một mảy may dấu vết nào, may mà còn lại những trang địa chí của tiền nhân lưu lại.

“Đến chợ Phường Đông rồi”. Ngước nhìn lên phía trước đọc dòng chữ to tướng trên mảng tường nóc chợ, tài xế xe reo lên như về tới quê nhà. Chợ Phường Đông hay còn gọi là chợ Chiều, vì chợ chỉ đông vào buổi chiều, khác với chợ Gia Cốc - nơi chúng tôi vừa đi qua, chợ đông vào buổi sáng. Chúng tôi xuống xe kéo vào một quán cà phê phía trước chợ.

Chợ Phường Đông nằm ở vị trí trung tâm xã Đại Phong nhưng lại ở đầu thôn Mỹ Hảo. Đây là khu đất mới xây dựng lại chợ khoảng độ vài chục năm nay, chợ cũ trước kia ở về phía đông cách chợ mới này non cây số. Ở chợ cũ, ngày trước có cái bến sông gọi là Cửa Khâu, nơi ghe thuyền, đò dọc chở hàng nông sản của thương lái xuôi về bán ở Hội An, Đà Nẵng, và ngược lại chở hàng hóa từ thành phố về cho các nhà buôn, cửa tiệm của chợ. Nói đến cái chợ Phường Đông xưa là tôi lại nhớ  về năm tháng tuổi thơ ở làng,  từng bao lần trốn học vì mê xem mấy gánh Sơn Đông mãi võ biểu diễn tuồng tích cải lương và võ thuật ở chợ để bán thuốc chữa bệnh. Mấy câu vọng cổ “Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà” tôi thuộc nằm lòng là từ mấy gánh Sơn Đông này đây. Các bạn làng đồng thời với tôi hẳn không quên cái tiệm tạp hóa của ông Nhạc ở đầu dốc chợ. Thời cuối những năm năm mươi đầu thập niên sáu mươi của thế kỷ trước, cả vùng quê này chỉ mỗi ông Nhạc là có chiếc xe gắn máy, dân quê thời đó gọi là xe máy dầu, sau này lớn lên tôi mới biết đấy là loại xe Goebel do Đức sản xuất. Hễ mỗi khi nghe tiếng xe máy của ông Nhạc nổ lạch bạch đầu trên hay xóm dưới, là bọn trẻ chúng tôi cắm đầu cắm cổ chạy theo để được hả hê… ngửi khói. Cũng thời đó, chợ Phường Đông còn có cái quán mì Quảng của bà Kỷ, ngon thuộc vào loại có một không hai. Tôi chẳng rõ bà Kỷ làm mì bằng thứ nước nhưn gì, chỉ có điều hơn nửa thế kỷ qua rồi, và có lẽ tôi cũng đã ăn mì Quảng khắp mọi nơi có đến  hàng trăm quán, nhưng dường như chẳng nơi đâu sánh bằng mì Quảng bà Kỷ ở chợ Phường Đông xưa…

Nhưng tất cả đấy là những chuyện còn có kẻ quên người nhớ, nghĩa là chưa xưa lắm. Xưa như sách Ô châu cận lục thấp thoáng cái làng Gia Cốc 500 năm tuổi mới là xưa. Xưa như sách Đại Nam nhất thống chí thời vương triều nhà Nguyễn, ghi cái chợ Phường Đông thuộc các làng: Bàn An, Đông Phước, An Thôn và Thất Châu, bây giờ về quê hỏi tên mấy cái làng ấy, trẻ không biết đã đành, hỏi người già thì cũng như đi tìm làng trong cổ tích. Cho dù vậy, từ những trang sách địa chí xưa ghi lại ít ỏi dăm ba địa danh, hay tên con sông, bãi chợ, bến đò, ta cũng có thể lần dò theo những tuổi tên ấy, như vịn vào chút tro than của ánh lửa khai hoang mở đất của tiền nhân mà truy tìm dấu vết quê hương bản xứ của mình.

Rời quán cà phê, xe chúng tôi chạy trên con đường qua trước cổng sân đình làng mới, rồi chạy dọc theo đường bờ sông và dừng lại trên bãi cồn Chùa, sau cái vườn đình (cũ) Tam Châu Đông Phúc. Bước xuống xe đứng nhìn dọc theo bờ sông dài lở lói nham nhở, nhất là những mảnh vườn, nửa đã lở sụp xuống sông sâu, nửa còn lại chênh vênh trên miệng vực như một niềm nuối tiếc gắng gỏi bám vào làng. Dân làng Ấp Bắc cũng đã di dời gần hết, con đường làng quạnh quẽ không một bóng người qua. Vậy mà nơi đây từng một thời được xem là thôn xóm yên vui, trù phú vào loại  hàng đầu của xã Đại Phong. Sôi nổi nhất là vào các mùa thu hoạch: dưa hấu, thuốc lá, đậu phụng, rồi mía đường…, làng Ấp Bắc tháng năm ấy vào những vụ mùa đông vui như trẩy hội. Đưa tay chỉ về hướng dòng sông, tôi nói với Lâm: Đất của làng này ngày trước qua tận bên kia bờ sông kia đấy. Từ chỗ mình đứng đây ra tới bến sông là cả biền dâu xanh rộng hàng cây số, vậy mà giờ đây mênh mông nước. Có điều, nào phải chỉ thiên tai gieo xuống tai họa làng trôi xóm mất không đâu, mà góp vào sự tàn phá ghê gớm đó còn có bàn tay con người. Lâm tặc, khoáng tặc, vàng tặc, sa tặc…, có khi còn cả mấy cái thủy điện trên vùng đầu nguồn ấy nữa. Trước đây, nếu chưa đến mùa mưa lụt, dòng Vu Gia trong veo chảy bình yên đẹp đến nao lòng giữa đôi bờ cát trắng, thế mà bây giờ ngầu đục, sủi bọt chảy lừ đừ mệt mỏi như chở theo trong lòng một vết thương...

Thôi mặc, còn bấy nhiêu bờ bãi, vườn tược, quay được cảnh nào cứ quay, ghi chép được gì cứ ghi chép. Những hình ảnh chúng tôi ghi được bây giờ cũng là một thứ lửa gìn giữ quá khứ của một vùng đất, để lỡ mốt mai thiên tai lại tiếp tục lụt lở làng trôi còn có thể vịn vào lửa ấy mà tìm về quê quán, cho dẫu chỉ còn là chút khói mong manh dẫn đường. Tôi chợt nhớ đến kinh nghiệm một vị thầy địa chí học từng nói với mình: Muốn tìm lại quê xưa đã bao lần dâu bể, anh chị  hãy nhắm mắt nhìn vào khói mây thăm thẳm bến bờ ấy, nhìn càng xa càng thấy những ngày xưa tấp nập quay về. Có điều con người ta có những giờ phút hồi niệm quay về như thế hay không, hay là quê quán xứ sở quá khứ đã sa mạc trên mọi cánh đồng ký ức.

Bút ký NGUYỄN NHÃ TIÊN

Tin mới đăng

Xem nhiều nhất