Hôm nay:24/11/2024
CHỢ ĐẦU MỐI Ở BẮC QUẢNG NAM XƯA
Vân Trình
Cho đến tận những năm 50 của thế kỷ trước, vùng đất Đại Lộc bao gồm cả Hiên, Giằng (nay là các huyện: Tây Giang, Đông Giang, Nam Giang). Có nghĩa là về phía Tây biên địa của Đại Lộc xưa vừa giáp nước bạn Lào, vừa giáp các tỉnh Kon Tum, Thừa Thiên Huế. Vì vậy, Đại Lộc đã trở thành vị trí trung chuyển quan trọng trong hoạt động thương nghiệp của cả một vùng “trên nguồn – dưới biển” rộng lớn ở đất Quảng, với những hình thức mua bán, trao đổi hàng hóa độc đáo ở các chợ đầu mối:
Ai về nhắn với bạn nguồn,
Mít non gửi xuống, cá chồn gửi lên.
Câu ca ấy phản ánh chân thực mối quan hệ thương mại khá lâu đời, giàu tình nghĩa keo sơn giữa những “bạn hàng” ở hai vùng nguồn – biển cách trở.
Bấy giờ, người đi buôn nguồn phần lớn đi bằng đò dọc. Hàng hóa đem đến miền ngược thường là gạo, muối, cá khô, đường, đậu, tơ, vải, đồ gốm…; hoặc theo yêu cầu cụ thể của khách hàng (dặn trước). Hàng hóa đem về xuôi là những đặc sản của núi rừng: mật ong, mật gấu, xương cọp, nhung nai, ngà voi, thơm, chuối mít, trầu, cau, mây nước, chó săn đã thuần dưỡng…
Các chợ đầu mối sầm uất thường là những chợ ở các bến đò dọc, ven các con sông lớn. Vùng đất nơi ngã ba con sông Thanh đổ vào sông Nước Mỹ, có một bãi cát bằng phẳng nằm ở phía trên thác, làm nơi đậu của ghe thuyền có tên là Bến Giằng Xay. Về sau Bến Giằng Xay được rút gọn lại còn Bến Giằng. Bến Hiên cũng là một bãi bồi rộng ở vùng đất nơi ngã ba sông Trăng chảy vào sông Con. Đầu thế kỷ 20, có một người miền xuôi lên đây vỡ hoang trồng lúa, bắp,... Ghe lái buôn chở hàng từ hạ lưu lên trao đổi với miền ngược đều ghé vào đây. Bến Trầu (còn gọi là Bãi Trầu) bên sông Bung là nơi người Cơ Tu gùi trầu nguồn từ trong núi ra tập trung tại đây để đổi hàng của thương lái từ dưới xuôi lên:
Trầu nguồn ở tận sông Bung.
Chờ cau Đại Mỹ để cùng về xuôi.
Các bậc cao niên ở xã Đại Sơn kể rằng, Hội Khách ngày nay vốn là chợ phiên quan trọng. “Hội” có nghĩa là hội chợ, họp chợ. Còn “Khách” ở đây chỉ đồng bào dân tộc thiểu số anh em từ Hiên, Giằng xuống. Các phiên chợ tại Hội Khách (căn cứ vào quy ước tính theo tuần trăng) giữa người dân tộc thiểu số và các thương lái người Kinh diễn ra nội trong ngày, sau đó tan ngay, trả lại sự yên tĩnh tự nhiên vốn có của vùng đất này. Hình thức mua và bán này tồn tại cho đến đầu thế kỷ 20 mới chấm dứt. Đây là nét độc đáo của phiên chợ Kinh – Thượng một thời vang bóng, nay chỉ còn lại một địa danh lịch sử- văn hóa: Hội Khách.
Nằm bên tả ngạn sông Thu Bồn, địa danh Bến Dầu (trước kia thuộc tổng An Lễ, phủ Duy Xuyên, nay thuộc các thôn Tây Lễ, Mỹ Lễ, xã Đại Thạnh, huyện Đại Lộc) là nơi tập trung nguồn hàng dầu rái được khai thác từ những cánh rừng phía Tây huyện Đại Lộc và của huyện Nông Sơn ngày nay. Từ đây, hàng trăm thùng dầu rái được đưa về xuôi tiêu thụ, phục vụ cho việc sơn trét thuyền mành, ghe bầu và cả thuyền thúng, thuyền nan. Dầu rái được nhà Nguyễn xem là sản vật quý của núi rừng phương Nam. Mục “Sản vật” trong Đồng Khánh địa dư chí có đề cập các địa danh có thổ sản về dầu nước, như ở tổng An Lễ (Duy Xuyên) có dầu rái (Mãnh hỏa du).
Ở dưới đồng bằng, ngoài việc giải quyết nhu cầu nông thổ sản của dân địa phương, các chợ đầu mối ở Bắc Quảng Namthời xưa còn phản ảnh một cách khách quan, trung thực các hoạt động kinh tế mạng tính chất hàng hóa rõ rệt. Chợ Quảng Huế là một điển hình. Nằm trên vùng ngã ba sông, nơi nổi tiếng tằm dâu tơ lụa một thời, chợ Quảng Huế là “cái rốn”, là trung tâm giao lưu hàng hóa giữa Đại Lộc với Điện Bàn, Duy Xuyên, Hội An… và miệt nguồn bằng đường thủy. Điều này thể hiện qua câu ca mãi còn lưu truyền:
Kể từ Quảng Huế xô ra
Kim Liên, Lệ Trạch, Vân Ly, Đa Hòa…
Sẽ là thiếu sót lớn nếu không nhắc đến chợ Phú Thuận (nay thuộc xã Đại Thắng). Đây là chợ lớn nên cái gì ở các chợ nhỏ không có, trong vùng không có, thì cứ đến chợ Phú Thuận. Trước năm 1945, chợ Phú Thuận tọa lạc cách vị trí hiện nay khoảng vài chục mét, nằm sát bờ sông Thu Bồn. Sau này, do lũ lụt hàng năm, đất sát chợ bị lở nên phải dời sang vị trí bây giờ. Xung quanh chợ, người ta làm nhà vừa để ở, vừa để bán hàng. Trong chợ, có bốn dãy lều bằng tranh tre để cho những người buôn bán trong chợ thuê lại. Mỗi dãy lều có từ hai đến ba chục người bán hàng. Chợ Phú Thuận phân ra từng “ngành hàng”: Có chỗ bán tạp hóa, có chỗ bán rau củ, thịt cá, mắm muối... Những hộ này chuyên kinh doanh các mặt hàng phổ biến lúc bấy giờ như mắm muối, vải vóc, rượu, đường ăn... Trong đó, mặt hàng bán chạy nhất là mắm. Mắm có mắm cái và mắm nước. Người ta đựng mắm trong hũ được làm bằng gốm. Mắm mua thường là mắm cái. Phú Thuận là chợ trung chuyển nên ngày trước là nơi hàng ngày có nhiều ghe thuyền ghé đến bến đò Phú Thuận. Ghe thuyền từ miền xuôi lên như Đà Nẵng, Hội An... Và, ghe thuyền từ miền ngược xuống như ghe thuyền ở Hòn Kẽm, Đá Dừng, Tý, Sé, Dùi Chiêng và xa nhất tận Trà Linh. Không chỉ ghe thuyền ở miền xuôi, miền ngược đi và đến, ngay bến sông Phú Thuận cũng có vạn đò Giảng Hòa. Ở đây, có hàng chục hộ chuyên sinh sống bằng nghề chở thuê, cả hàng hóa và hành khách. Họ gần như túc trực ngày đêm, sẵn sàng chở hàng thuê khi cần. Đặc biệt, cứ đến tháng Chạp, khi năm hết, Tết đến, ghe thuyền miền xuôi, miền ngược và ghe thuyền của dân vạn Giảng Hòa như mở hết tất bật chở hàng hóa, hành khách. Nhiều khi, dưới bến sông, ghe thuyền cứ đậu san sát. Hàng hóa, từ lâm thổ sản, hàng tiêu dùng cứ ùn ùn đến và đi. Đến hai chín, ba mươi tháng Chạp, chợ Phú Thuận không chỉ đông buổi sáng như lệ thường mà còn kéo qua buổi chiều, thậm chí có lúc cả buổi tối. Sự phát đạt của chợ Phú Thuận còn kéo dài đến thời chín năm chống Pháp:
Tờ mờ ở chợ Phú Đa
Nửa buổi Phú Thuận, nửa chiều Phường Đông
Đêm về gió mát trăng thanh
Ngồi chợ Trung Phước ngóng chồng đánh Tây
Vượt lên tư tưởng "trọng nông ức thương" thời phong kiến, tầng lớp tư thưởng ở Quảng Nam xưa đã góp phần khẳng định vị thế của chợ đầu mối trong đời sống kinh tế của một xã hội nông nghiệp đóng khung trong bức tường tự cấp, tự túc. Lý giải về sự phát triển phồn thịnh của hệ thống chợ đầu mối ở đất Quảng, các nhà nghiên cứu cho rằng điều đó dựa trên nền tảng sự phong phú, đa dạng về sản vật. Trong cuốn Phủ biên tạp lục, nhà bác học Lê Quý Đôn đã viết: "Thuận Hóa không có nhiều của cải, đều lấy ở Quảng Nam vì xứ Quảng Nam là đất phì nhiêu nhất thiên hạ. Người Thăng Hoa, Điện Bàn biết dệt vải, lụa, vóc, đoạn, lĩnh, là, hoa màu khéo đẹp chẳng khác Quảng Đông (Trung Hoa); ruộng vườn rộng rãi, gạo lúa tốt; trầm hương, tố hương, sừng tê, ngà voi, vàng bạc, đồi mồi, trai ốc, bông, sáp, đường mật, dầu sơn, cau, hồ tiêu, cá, muối, gỗ lạt đều sản xuất ở đấy…"./.